Lịch sử Scandinavie

Đối với cái nhìn chi tiết hơn về lịch sử của vùng, xem Lịch sử Scandinavie.
Phạm vi lớn nhất của Đế quốc Thụy Điển (1561–1721)

Trong quá trình Công giáo hóa và lập quốc giữa thế kỷ thứ 10 và 13, các tiểu quốc Germanvà thủ lĩnh được thống nhất thành ba quốc gia:

Liên minh Kalmar năm 1400.

Ba quốc gia Scandinavie năm 1387 tham gia vào Liên minh Kalmar dưới quyền nữ hoàng Margaret I của Đan Mạch. Thụy Điển rời liên minh năm 1523 dưới quyền vua Gustav Vasa. Hậu quả của việc ly khai khỏi liên minh Kalmar của Thụy Điển là nội chiến nổ ra tại Đan Mạch và Na Uy. Tiếp theo đó là cuộc cải cách Tin Lành. Khi mọi thứ đã ổn định, Viện cơ mật Na Uy bị phá bỏ-nó được tập hợp lần cuối vào năm 1537. Một liên minh cá nhân, tham gia bởi các vương quốc Đan Mạch và Na Uy năm 1536, kéo dài đến năm. Ba nước thừa kế độc lập sau đó được thành lập từ liên minh không bình đẳng này: Đan Mạch, Na Uy và Iceland.

Biên giới giữa ba nước có hình dạng như bây giờ kể từ giữa thế kỷ 17: Năm 1645 Hiệp ước Brömsebro, Đan Mạch–Na Uy nhượng các tỉnh của Na Uy gồm Jämtland, Härjedalen và Idre & Särna, cũng như các đảo tại biển Baltic Sea gồm Gotland và Ösel (Estonia) cho Thụy Điển. Hiệp ước Roskilde, được ký vào năm 1658, bắt Đan Mạch–Na Uy nhượng các tỉn của Đan Mạch gồm Scania, Blekinge, Halland, Bornholm và các tỉnh của Na Uy gồm BåhuslenTrøndelag cho Thụy Điển. Hòa ước Copenhagen bắt Thụy Điển trả Bornholm và Trøndelag cho Đan Mạch–Na Uy, và từ bỏ yêu sách nhận chủ quyền hòn đảo Funen.[5]

Ở phía đông, Phần Lan, từng là một phần được sáp nhật hoàn toàn vào Thụy Điển từ thời Trung cổ cho tới chiến tranh Napoleon, khi nó nhượng lại cho Nga. Mặt dù có nhiều cuộc chiến kể từ khi ba quốc gia thành lập, Scandinavie đã luôn đóng cửa về mặt chính trị và văn hóa.